Xác định Khâm Đức là địa bàn trọng yếu về quân sự nên Ngô Đình Diệm đã cho thành lập quận Phước Sơn. Năm 1960, chúng cho mở đường 14, 16 để phục vụ chiến tranh. Năm 1961, xây dựng sân bay quân sự Khâm Đức để ứng cứu các cứ điểm trong vùng, Tây Nguyên và Hạ Lào. Năm 1963, đế quốc Mỹ tiếp tục thành lập Trại Lực lượng đặc biệt Khâm Đức (Trung tâm huấn luyện biệt kích toàn miền nam). Năm 1965, Mỹ áp dụng chiến lược chiến tranh cục bộ, đẩy mạnh kế hoạch tìm và diệt, tiếp tục thành lập Chi khu quân sự Khâm Đức, biến nơi đây thành Cụm cứ điểm quân sự liên hoàn vững chắc, có sân bay, trung tâm huấn luyện biệt kích và chi khu quận lỵ. Từ đây, địch thường xuyên đánh phá vùng giải phóng, sát hại đồng bào và cung cấp thông tin tình báo để máy bay, pháo binh địch ném bom, bắn phá hành lang chiến lược, cắt đứt sự chi viện của ta ra chiến trường miền bắc.
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, Khu ủy Khu 5 và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 tiếp tục triển khai kế hoạch X1 của Bộ Chính trị. Đầu tháng 3-1968, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 giao Sư đoàn Bộ binh 2 phối hợp các lực lượng huyện Phước Sơn tiêu diệt căn cứ quân sự Khâm Đức, giải phóng Phước Sơn nhằm khai thông hành lang chiến lược và mở rộng vùng hậu cứ cách mạng. Để thực hiện chiến dịch, Tư lệnh Quân khu đồng ý cho Sư đoàn 2 tổ chức khu chiến tại Núi Ngang (huyện Tiên Phước) nhằm tiêu hao sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch; căng kéo, giam chân Sư đoàn Americal không cho chúng tiếp viện lên chiến trường Khâm Đức. Ngày 5-5, tiếng súng Núi Ngang của Trung đoàn 31 khai hỏa, đồng thời đêm mùng 9 rạng sáng 10-5, Trung đoàn 1 đã tấn công cứ điểm Ngok Tavak. Qua hơn một ngày đêm chiến đấu ngoan cường, đến 15 giờ ngày 10-5, quân ta làm chủ hoàn toàn Ngok Tavak, đánh tan rã hai đại đội biệt kích Lôi Hổ và một trung đội pháo binh Mỹ, tiêu diệt và làm bị thương gần 200 tên, bắn rơi hai máy bay, thu hai đại bác 105 ly và nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.
Sáng 10-5, quân Mỹ vẫn tăng viện Tiểu đoàn 2 - Lữ đoàn 196 lên Khâm Đức, nhưng quân địch không dám đánh chiếm lại Ngok Tavak, thế chủ động trên chiến trường thuộc về ta. Sáng 11-5, quân ta cơ động tiến công tiêu diệt các điểm ngoại vi và uy hiếp khu trung tâm; lực lượng vũ trang huyện và du kích các xã tiếp tục bám sát chiến trường phục vụ chiến đấu, triển khai chốt chặn đánh tàn quân tháo chạy, bắt và áp giải tù binh, chuyển thương binh, tử sĩ về tuyến sau. Đêm 11 rạng sáng 12-5, Tiểu đoàn Đặc công, Trung đoàn 1, Trung đoàn 21 Sư đoàn 2 cùng bộ đội huyện tiến công tiêu diệt các cứ điểm ngoại vi D, E, H, I, K; nã pháo dữ dội vào sân bay Khâm Đức. 6 giờ ngày 12-5, cả bầu trời và thung lũng Khâm Đức bị quân ta khóa chặt, địch không còn lối thoát. Tướng Westmoreland lệnh cho Bộ Chỉ huy tác chiến Sư đoàn Americal rút lui toàn bộ lực lượng Mỹ, ngụy ra khỏi Khâm Đức, nhưng tất cả đã muộn, buộc Mỹ phải cho máy bay oanh tạc sát khu trung tâm và mở đường máu thoát thân. Đến trưa 12-5, quân và dân ta đã làm chủ hoàn toàn chiến trường Khâm Đức – Ngok Tavak, đánh tan rã một tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ, bảy đại đội biệt kích Lôi Hổ, tiêu diệt hơn 700 tên địch, làm bị thương hàng trăm tên, bắt sống 104 tên (trong đó có một cố vấn Mỹ) làm tù binh; bắn rơi hai máy bay CH47, hai máy bay C-130, chín máy bay trực thăng và thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.
Chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavak được đánh giá là chiến thắng lớn nhất trên chiến trường miền núi Quảng Nam lúc bấy giờ, giáng một đòn mạnh mẽ vào ý chí xâm lược của Mỹ, giải phóng Khâm Đức - Phước Sơn, mở rộng vùng hậu cứ, làm cho Mỹ, ngụy mất bàn đạp tấn công Tây Nguyên và hạ Lào. Chiến thắng còn khai thông hành lang chiến lược huyết mạch - đường mòn Hồ Chí Minh, bảo đảm cho việc ta vận tải vũ khí, hàng hóa và lực lượng từ hậu phương miền bắc vào chiến trường miền nam, mở rộng tuyến vận tải đường ngang nối Khâm Đức - Làng Hồi, xuống Hiệp Đức và vùng đồng bằng tỉnh Quảng Nam - Quảng Đà.
Phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng, hòa bình lập lại, nhân dân Phước Sơn đã có nhiều nỗ lực để xây dựng, ổn định và phát triển đời sống. Ngay sau chiến tranh, đời sống người dân hết sức khó khăn, cuộc sống du canh – du cư, ốm đau, bệnh tật luôn đe dọa; hàng trăm tấn bom mìn nằm rải rác khắp núi rừng, hàng nghìn ha nương rẫy bị nhiễm chất độc hóa học; cơ sở vật chất kỹ thuật hầu như không có gì. Trước tình hình này, Đảng bộ huyện đã tập trung lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, triển khai chiến dịch rà phá bom mìn, khai hoang, phục hóa, mở rộng diện tích canh tác, tăng gia sản xuất; đẩy mạnh cuộc vận động định canh – định cư, đưa đồng bào xuống định cư ở vùng thấp hơn như Nước Non, Nước Xa, Khâm Đức, Làng Hồi... để ổn định đời sống. Đến nay, đồng bào 14 dân tộc huyện Phước Sơn, trong đó đa số là dân tộc Bh’nong, đã làm nên một kỳ tích mới: 98% hộ dân được dùng điện lưới quốc gia; phủ nhựa, bê-tông đường bốn cấp (huyện, xã, thôn, làng) đi được bốn mùa; kiên cố hóa bệnh viện, trạm y tế , trường học từ mầm non đến trung học phổ thông; 100% học sinh đều được đến trường. Công tác bảo vệ rừng thực hiện tốt, giữ được 71 nghìn ha rừng tự nhiên giao cho dân quản lý. Đặc biệt, từ 50% hộ nghèo năm 2009, đến nay chỉ còn 25%, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tốc độ đô thị hóa tại thị trấn Khâm Đức phát triển nhanh chóng với nhiều tòa nhà cao tầng đã mọc lên bao gồm trung tâm hành chính huyện, trường học, nhà dân, khách sạn, chợ, nhà hàng ăn uống, dịch vụ…
Cụ Hồ Văn Điều, nguyên đại biểu Quốc hội khóa 8, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, Trưởng ban Dân tộc miền núi Quảng Nam – Đà Nẵng, Bí thư Huyện ủy Phước Sơn thời chống đế quốc Mỹ cứu nước tự hào cho biết: “100% đồng bào dân tộc Bh’nong chúng tôi đều mang họ Hồ, du kích và nhân dân địa phương đều tham gia chiến dịch giải phóng Khâm Đức - Phước Sơn với các công việc dân công, khiêng thương, vận chuyển đạn pháo... Theo lời dặn của cố Chủ tịch nước Lê Đức Anh khi về thăm Phước Sơn năm 1996, các thế hệ lãnh đạo chính quyền chúng tôi luôn cố gắng chung tay cùng nhân dân xây dựng đời sống, đặc biệt chú trọng bảo vệ và phát triển rừng thành công”. Về thăm công trình Tượng đài chiến thắng Khâm Đức đang được nâng cấp, đẹp hơn hẳn tượng cũ xây dựng cách đây 20 năm, cụ Hồ Văn Điều, ông Hồ Văn Cẩm, thôn 2, xã Phước Năng cùng nhiều cựu chiến binh từng tham gia trận đánh giải phóng Khâm Đức - Phước Sơn cùng bày tỏ niềm xúc động, mong muốn có được công trình ý nghĩa ghi lại một sự kiện hào hùng; đồng thời là địa chỉ bảo tồn văn hóa dân tộc Bh’nong, nơi lưu giữ những tư liệu về Đại tướng Chu Huy Mân và trận đánh lịch sử …