Để hiểu rõ hơn về Tháng hành động năm nay, PGS, TS Nguyễn Hoàng Long, Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế đã dành cho báo chí cuộc trao đổi xung quanh vấn đề này.
|
PGS, TS Nguyễn Hoàng Long. |
Phóng viên (PV): Chủ đề của Tháng hành động Quốc gia Phòng, chống HIV/AIDS năm nay là “Cùng hành động để kết thúc đại dịch HIV/AIDS” có ý nghĩa như thế nào thưa ông?
PGS, TS Nguyễn Hoàng Long: Năm 2019, Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy mại dâm chọn chủ đề cho Tháng hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS với chủ đề “Cùng hành động để kết thúc dịch AIDS” có nhiều ý nghĩa.
Thứ nhất, nhấn mạnh vai trò của cộng đồng trong phòng, chống HIV/AIDS: Mặc dù nhiễm HIV là nhiễm bệnh truyền nhiễm mãn tính, tuy nhiên các giải pháp để kiểm soát dịch HIV không chỉ là các giải pháp y tế mà mang tính xã hội tức cần có sự tham gia của tất cả lãnh đạo các cấp, ngành y tế, các ban ngành đoàn thể và cả cộng đồng. Khác với nhiều bệnh khác, khi một cá nhân mắc bệnh có thể đến các cơ sở y tế để khám, phát hiện và điều trị. Tuy nhiên với HIV là đại dịch xảy ra trên tất cả các quốc gia và châu lục trên thế giới nên ở bình diện rộng cần sự chung tay của cả cộng đồng thế giới phòng, chống HIV/AIDS, nhất là hiện nay xu hướng thế giới phẳng, người đã nhiễm HIV thậm chí vẫn không chẩn đoán được (trong giai đoạn cửa sổ) nên không thể áp dụng các biện pháp cấm đoán di chuyển hay cách ly. Cộng đồng các quốc gia nếu không chung tay sẽ không thể bảo vệ được quốc gia mình khỏi HIV/AIDS. Tương tự vậy, ở phạm vi nhỏ hơn là một quốc gia, một tỉnh, thành phố hay nhỏ hơn là một gia đình, chúng ta không thể dùng các biện pháp cách ly để dập dịch như với nhiều dịch khác. Hơn nữa, các giải pháp kiểm soát dịch ngoài việc lấy ngành y tế là chủ đạo thì rất cần sự chung tay của cả cộng đồng, từ việc lãnh đạo, chỉ đạo chương trình đến dự phòng lây nhiễm HIV, điều trị, chăm sóc HIV/AIDS, chống kỳ thị và phân biệt đối xử... nếu chỉ ngành y tế thực hiện sẽ không thể thành công…
Thứ hai, nhấn mạnh đến mục tiêu quan trọng mà cả thế giới quan tâm và Việt Nam đã cam kết đó là kết thúc dịch AIDS. Kết thúc dịch AIDS là mục tiêu cao nhất hiện nay để AIDS không còn là vấn đề sức khỏe cộng đồng của bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Liên hợp quốc cũng đã khuyến cáo các quốc gia muốn kết thúc dịch AIDS vào năm 2030 thì cần đạt được các mục tiêu 90-90-90 vào năm 2020. Các mục tiêu 90-90-90 đó là: 90% người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm của bản thân; 90% người chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc ARV; 90% người điều trị ARV có tải lượng HIV dưới ngưỡng ức chế. Thực tế Việt Nam năm 2018 kết quả ba mục tiêu này là 80-70-95. Như vậy, trừ mục tiêu thứ 3 chúng ta đã đạt được, còn hai mục tiêu trước, nhất là mục tiêu thứ 2 còn khá xa so với đích đạt ra trong khi chúng ta chỉ còn có 1 năm để thực hiện. Do vậy, nếu không có sự chung tay hành động của cả cộng đồng thì có thể chúng ta cũng sẽ không đạt được các mục tiêu 90-90-90 vào năm 2020 và tiến tới kết thúc dịch AIDS tại Việt Nam vào năm 2030.
|
Khám, tầm soát phòng tránh lây nhiễm HIV từ mẹ sang con. |
PV: Xét nghiệm HIV là đầu vào cho các mục tiêu 90-90-90. Hiện nay Cục Phòng, chống HIV/AIDS có giải pháp căn cơ nào để thực hiện mục tiêu này?
PGS, TS Nguyễn Hoàng Long: Cục Phòng, chống HIV/AIDS tăng cường công tác truyền thông, quảng bá dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS đặc biệt là dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV: Tính sẵn có, đơn giản, bảo mật, thân thiện. Bên cạnh đó, đẩy mạnh triển khai tư vấn xét nghiệm HIV tại cộng đồng thông qua mạng lưới cán bộ y tế thôn bản, xã phường, các nhóm tự lực cộng đồng, triển khai tư vấn xét nghiệm sàng lọc HIV tại 1.340 cơ sở; triển khai các mô hình tư vấn xét nghiệm mới: lần theo dấu vết của người nhiễm HIV để thông báo và tư vấn xét nghiệm HIV cho bạn tình, bạn chích chung của người nhiễm HIV, khuyến khích người nhiễm HIV giới thiệu những người có nguy cơ lây nhiễm HIV đến cơ sở y tế làm xét nghiệm; mở rộng hệ thống phòng xét nghiệm được phép khẳng định các trường hợp HIV dương tính, hiện tại có 152 phòng xét nghiệm tại 63/63 tỉnh, thành phố và 44 huyện; áp dụng những kỹ thuật mới của thế giới trong xét nghiệm sàng lọc đảm bảo nhanh, chính xác, an toàn: xét nghiệm lấy máu đầu ngón tay, xét nghiệm dịch miệng; giới thiệu dịch vụ kết nối sẵn có đa dạng sau xét nghiệm HIV như: điều trị MMT, PrEP, ARV, dịch vụ dự phòng khác BCS, BKT...
PV: Ông có thể nêu khái quát diễn biến tình hình dịch HIV/AIDS tại Việt Nam hiện nay?
PGS, TS Nguyễn Hoàng Long: Trong 9 tháng đầu năm 2019, cả nước xét nghiệm phát hiện mới 7.779 trường hợp nhiễm HIV, số bệnh nhân chuyển sang giai đoạn AIDS 2.984, số bệnh nhân tử vong 1.428 trường hợp. Số người mới phát hiện nhiễm HIV tập trung chủ yếu ở độ tuổi 16-29 (39,4%) và 30-39 (34,3%). Đường lây chủ yếu là quan hệ tình dục không an toàn (65%) và qua đường máu (17%), mẹ sang con 2%, còn lại không có thông tin về đường lây truyền.
Tính đến hết ngày 30-9-2019, cả nước có 215.661 người nhiễm HIV được các tỉnh báo cáo hiện đang còn sống và 103.616 người nhiễm HIV đã tử vong. Tuy nhiên, trong số 215.661 người hiện đang báo cáo nhiễm HIV được phát hiện, có khoảng 10% người nhiễm HIV trùng lặp hoặc đã tử vong nhưng chưa được ghi nhận. Kết quả giám sát trọng điểm HIV năm 2018 trên nhóm phụ nữ bán dâm (13 tỉnh) và nam quan hệ tình dục đồng giới/MSM (8 tỉnh), tỷ lệ nhiễm HIV nhóm phụ nữ bán dâm là 3,58% và nhóm MSM là 10,78%. Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ bán dâm thay đổi không đáng kể so với năm 2017 và tăng hơn 1% so với năm 2016, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm MSM có xu hướng giảm so với năm 2017 (12,19%).
Số liệu phát hiện nhiễm mới nhìn chung không có nhiều thay đổi so với năm 2018. Dịch HIV tập trung chủ yếu ở nam giới (chiếm 75%) và đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy đang có xu hướng giảm, thay vào đó tỷ lệ này nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới đang ngày càng gia tăng và có khả năng sẽ trở thành nhóm chính trong lây nhiễm HIV. Ngoài ra, các nhóm có nguy cơ thấp như nhóm vợ, chồng, bạn tình người nhiễm HIV vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm lây truyền HIV do khó tiếp cận với các dịch vụ tư vấn xét nghiệm và can thiệp dự phòng.
PV: Ông có thể cho biết kết quả nổi bật về phòng, chống HIV/AIDS năm 2019?
PGS, TS Nguyễn Hoàng Long: Năm 2019 dịch HIV/AIDS trong cộng đồng tiếp tục thuyên giảm, mức 0,24%, nhưng diễn biến phức tạp, gia tăng ở một số nhóm nguy cơ cao và còn xa so với mục tiêu Chấm dứt đại dịch AIDS. Bên cạnh đó, Cục Phòng, chống HIV/AIDS mở rộng và đa dạng dịch vụ xét nghiệm HIV, phát hiện gần 10.000 trường hợp nhiễm HIV mới qua các giải pháp xét nghiệm mới như: Xét nghiệm tại các cơ sở y tế, xét nghiệm dựa vào cộng đồng, tự xét nghiệm. Sử dụng sinh phẩm mới để phát hiện sớm nhiễm HIV, recency testing, sinh phẩm xét nghiệm thế hệ 4...; tăng cường huy động sự tham gia của các tổ chức cộng đồng vào phòng, chống HIV/AIDS; điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện tiếp tục được duy trì và đổi mới…
Trong năm 2019, điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) triển khai tốt; tốc độ tăng trưởng khách hàng nhanh hơn so với các nước trong khu vực; hiện có 4.000 người đang sử dụng PrEP; tỷ lệ duy trì điều trị cao. Điều trị ARV tiếp tục được mở rộng, chất lượng điều trị rất tốt. Hiện có 140.000 bệnh nhân đang điều trị ARV. Tỷ lệ tuân thủ sau 12 tháng đạt 88%. Tải lượng virus dưới ngưỡng ức chế (<1000 copy/ml máu) đạt 95%, dưới ngưỡng phát hiện (<200 copy/ml máu) đạt 92%. Phác đồ điều trị liên tục được cập nhật; thuốc mới (TLD) được cấp phép, mở rộng điều trị trong ngày; cấp phát thuốc nhiều tháng... Bên cạnh đó, Cục Phòng, chống HIV/AIDS khởi động chiến dịch Quốc gia “Không phát hiện = Không lây truyền” (K=K) nhằm giảm kỳ thị và phân biệt đối xử, tăng khả năng tiếp cận của người dân đến các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS; triển khai chỉ thị của Bộ Y tế về giảm kỳ thị, phân biệt đối xử với HIV tại các cơ sở y tế; chuyển đổi thành công điều trị ARV từ viện trợ sang BHYT...
PV: Xin ông cho biết những kết quả đạt được sau 20 năm triển khai điều trị HIV/AIDS và những định hướng trong thời gian tới?
PGS, TS Nguyễn Hoàng Long: Sau 20 năm triển khai điều trị HIV/AIDS, hệ thống các cơ sở điều trị HIV/AIDS đã được thiết lập và mở rộng nhanh chóng để tăng nhanh độ bao phủ điều trị, tạo điều kiện thuận lợi cho người nhiễm HIV tiếp cận dịch vụ điều trị và duy trì điều trị lâu dài. Từ 3 đến 5 cơ sở điều trị HIV/AIDS vào năm 2000 đến nay đã có 436 cơ sở. Trong đó có 8 cơ sở điều trị tại tuyến trung ương; 77 cơ sở tuyến tỉnh/thành phố (Bệnh viện tỉnh, Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh/thành phố hoặc Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS); 351 cơ sở điều trị ARV tuyến huyện (Bệnh viện huyện hoặc Trung tâm Y tế huyện). Ngoài ra còn có các cơ sở điều trị ARV tại 37 trại giam; 06 cơ sở điều trị tại trung tâm 06 và cơ sở tôn giáo, 03 phòng khám tư nhân. Số bệnh nhân được điều trị tăng hơn 50 lần so với khi bắt đầu triển khai điều trị ARV mở rộng tại Việt Nam (năm 2004). Nhiều mô hình chăm sóc điều trị được triển khai; mở rộng BHYT cho người nhiễm HIV; chất lượng điều trị luôn được bảo đảm và ngày càng nâng cao: Tỷ lệ bệnh nhân được duy trì điều trị thuốc ARV sau 12 tháng ở mức độ trên 80%. Số trẻ em nhiễm HIV do lây truyền HIV từ mẹ có xu hướng liên tục giảm từ năm 2012 đến nay, tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con ở những trẻ được điều trị dự phòng bằng ARV trong 3 năm gần đây đều dưới 2%; việc mở rộng điều trị ARV đã giảm đáng kể số người tử vong do AIDS…
Trong thời gian tới tiếp tục mở rộng dịch vụ điều trị, tăng số người được điều trị ARV, triển khai các sáng kiến, cập nhật các khuyến cáo mới của Tổ chức Y tế thế giới; mở rộng mô hình cung cấp dịch vụ toàn diện cho điều trị HIV, lao và điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con tại tuyến huyện, điều trị trong trại giam, cơ sở điều trị khép kín; tăng cường chất lượng điều trị; triển khai các hoạt động thông tin truyền thông về hiệu quả điều trị thuốc ARV đến các cộng đồng nguy cơ cao; chuẩn hóa công nghệ thông tin trong quản lý điều trị HIV đáp ứng được yêu cầu khám chữa bệnh BHYT. Đồng thời thúc đẩy mở mở rộng thị trường cung ứng thuốc ARV trong nước tạo thuận lợi cho việc cung ứng thuốc ARV qua bảo hiểm y tế.